Di tích Lịch sử - Nhà tù Sơn La

Di tích Lịch sử - Nhà tù Sơn La

Phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La

 

Nằm giữa lòng phố núi Sơn La, đồi Khau Cả uy nghiêm, trầm mặc soi mình bên dòng suối Nậm La hiền hòa, nơi đây còn lưu giữ chứng tích lịch sử Nhà tù Sơn La - một trường học cách mạng tiêu biểu của các chiến sỹ cộng sản và những người Việt Nam yêu nước, gắn liền với hình ảnh cây đào Tô Hiệu, biểu tượng về sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

          Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy cai trị trên vùng Tây Bắc. Năm 1904, ngay sau khi chuyển về tỉnh lỵ Vạn Bú về đặt tại Sơn La, đồng thời với việc xây dựng tòa công sứ, nhà giám binh, trại lính, công sở, thực dân Pháp đã ráo riết chuẩn bị cho xây dựng ở đây một nhà tù.

          Đầu năm 1908, thực dân Pháp cho xây dựng Nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả. Với tính chất là một nhà tù hàng tỉnh chủ yếu để giam giữ tù thường phạm, nên thiết kế ban đầu chỉ có 1.217m2. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta vùng lên đấu tranh, tiến tới lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến. Cơn bão táp cách mạng đã làm cho kẻ địch bất ngờ, một mặt chúng tìm mọi cách đàn áp, hòng dập tắt các phong trào cách mạng đang sục sôi trong quần chúng, mặt khác cho xây dựng, mở rộng hệ thống nhà tù trên lãnh thổ Việt Nam để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Nhà tù Sơn La lúc này được mở rộng thêm gần 1.000m2 nữa, đổi tên thành Ngục Sơn La và trở thành một “Địa ngục trần gian” để giam cầm, đầy ải, giết dần, giết mòn tù nhân chính trị và những người Việt Nam yêu nước.

          Đầu năm 1940, thực dân Pháp cho xây dựng một trại giam mới có diện tích 170m2 với ý định để giam tù nhân nữ, nhưng âm mưu thâm độc này đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, Nhà tù Sơn La có tổng diện tích là 2.184m2.

          Bấy giờ, Sơn La nổi tiếng là chốn “rừng thiêng nước độc”, nơi “lam sơn chướng khí” khí hậu cực kỳ khắc nghiệt, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Trong một lần bị đày lên Sơn La, đồng chí Xuân Thủy đã sáng tác bốn câu thơ miêu tả cảnh núi rừng Tây Bắc:

“Non cao bốn mặt trùng trùng

Ngàn cây man mác, rầm rừng hoang vu

Một vùng trời đất âm u

Đêm hiu hắt lạnh, ngày mù mịt sương”

          Xây dựng Nhà tù Sơn La giữa vùng rừng núi hoang vu, hiểm trở, biệt lập với xã hội. Một mặt thực dân Pháp muốn tách rời mối quan hệ giữa tù chính trị với nhân dân. Mặt khác, dựa vào khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc để làm suy kiệt sinh lực và giết dần, giết mòn tù nhân. Âm mưu độc ác này được lộ rõ trong một bức thư mật mà tên Công sứ Sơn La Xanh Pu Lốp gửi Thống sứ Bắc Kỳ năm 1932, có đoạn viết “… xin Ngài cứ tiếp tục gửi chính trị phạm lên Sơn La, bọn này nếu ở Hỏa Lò là những hạng hung hăng khó trị thì rồi đây khi lên tới Sơn La, chỉ trong vòng 6 tháng thôi, vi trùng sốt rét sẽ làm cho chúng suy nhược và trở nên hiền hòa”. Ngoài ra, thực dân Pháp còn lợi dụng trình độ dân trí, sự bất đồng ngôn ngữ, phong tục tập quán để gây chia rẽ, hằn thù dân tộc. Chúng treo thưởng rất cao cho những ai bắt được tù cộng sản. Cứ một cái đầu mang về sẽ được thưởng 20 đồng bạc trắng hoặc 5 tạ muối. Tên Cống sứ thường nói với tù nhân rằng “Đừng tìm cách trốn, thổ dân sẽ đem đầu các anh về đổi lấy muối”.

          Từ Nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) thực dân Pháp áp giải tù nhân lên Sơn La theo đường 41 cũ (nay là quốc lộ 6). Các “công voa” bị dồn lên ô tô bịt mui kín đưa đến Chợ Bờ (Hòa Bình), sau đó đi thuyền lên Suối Rút. Từ đây, tù nhân phải đi bộ 220km theo đường 41 để đến Sơn La. Dọc đường, chúng chia ra thành từng toán, mỗi toán trên 50 người, cứ 10 người xâu chung một dây lôi luồn qua xích tay (2 người 1 xích) thành một hàng đôi. Với cách áp dải như vậy, trong suốt quãn đường dài hơn 200km để tới Sơn La, mọi sinh hoạt hàng ngày của tù nhân từ việc ăn, ngủ, đại tiểu tiện đều rất khó khăn.

          Trong một lần bị đày lên thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, đồng chí Trần Huy Liệu đã sáng tác bài thơ có tên “Đi đày ở Sơn La”

“Một xích, hai thằng khắp đó đây

Ngủ ăn, đái, ỉa chẳng rời tay

Anh em ta thắt dây liên lạc

Trên bước đường xa, cát bụi đầy”

          Với dã tâm “một thời gian không lâu, sốt rét, bệnh tật và công việc khổ sai sẽ tiêu hao chúng một cách êm thấm”, thực dân Pháp đã áp dụng chế độ tù đày vô cùng khắc nghiệt về sinh hoạt và lao động hàng ngày của tù nhân tại Nhà tù Sơn La.

          Chế độ ăn uống của tù nhân do Thống sứ Bắc Kỳ quy định một ngày là 2 lạng thịt, 7,5 lạng gạo. Nhưng thực tế chế độ này bị bớt từ nhà thầy xuống nên mỗi bữa tù nhân chỉ có một nắm cơm nếp nấu nhão, trộn cả trấu lẫn sạn, ăn với muối trắng hoặc canh rau muống già nấu suông. Ngày lễ, tết bữa ăn được cải thiện hơn với vài miếng thịt lượn luộc chấm muối. Chế độ ăn đã vậy, chế độ ở cũng hết sức kham khổ, mỗi năm một người tù chỉ được phát hai bộ quần áo bằng vải thô, một manh chiếu, một chiếc chăn mỏng dính không đủ để chống chọi với khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, hàng ngày chúng còn trút lên đầu anh em tù nhân những công việc lao động khổ sai, nặng nhọc như: đục lỗ đặt mìn phá đá, khai thác gỗ, đẩy xe chở nước, cát, gạo…Mỗi sáng tinh mơ khi sương đem còn giăng kín sườn đồi, tiếng kèn đã giục giã anh em phải nhanh chóng xếp hàng ngũ, điểm danh, phân thành từng kíp chuẩn bị cho một ngày làm việc mới.

          Sống trong hoàn cảnh ăn uống thiếu thốn, môi trường “độc địa”, công việc vừa nặng nhọc lại không được nghỉ ngơi nên sức khỏe của tù nhân giảm sút nhanh chóng. Nhiều người đã mắc các chứng bệnh như: sốt rét ác tính, thương hàn, kiết lị, ghẻ lở, phù thũng, thậm chí còn đái ra máu, dẫn tới tử vong. Trong những năm 1930-1936 có hàng trăm chiến sỹ cộng sản và nhiều người yêu nước bị giết hại, chết vì bệnh tật, gửi xác dưới nghĩa địa Gốc ổi. Nhà tù Sơn La lúc đó được ví như “chiếc quan tài mở nắp, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”.

          Cuối năm 1935, các tù nhân tại Nhà tù Sơn La bí mật thành lập “Hội đồng Thống nhất” gồm 5 đồng chí, đồng chí Trường Chinh (bí danh Cây Xoan) được bầu làm chủ tịch. Hội đồng đã thành lập các ban và chỉ định người phụ trách gồm có: Ban trật tự trong, Ban trật tự ngoài, Ban nhà bếp, Ban hợp tác xã, nhà thuốc tổ chức các hoạt động tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, tăng gia sản xuất, gây quỹ, cải thiện đời sống tù nhân, tổ chức học tập lý luận…hội đồng thống nhất tù nhân chính là tổ chức chính trị tiền thân của Chi bộ Nhà tù Sơn La.

          Từ cuối năm 1939 đến cuối năm 1942 đã có 7 đoàn tù chính trị bị đày lên Sơn La, trong đó nhiều đồng chí đã trải qua thời kỳ hoạt động cách mạng và rút ra một kinh nghiệm: Dù có khó khăn đến mấy cũng phải gấp rút thành lập được một chi bộ cộng sản để lãnh đạo, tổ chức đấu trranh trong nhà tù mới có thể giành thắng lợi. Từ yêu cầu cấp bách đó, tháng 12/1939 các đảng viên trong tù đã bí mật triệu tập một hội nghị để thảo luận và thành lập chi bộ lâm thời gồm 10 đồng chí (10 đồng chí đó là: Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Hoàng Đình Dong, Nguyễn Văn Phúc, Trần Huy Liệu, Trần Đức Quảng, Nguyễn Văn Kim, Ngô Xuân Loan, Bùi Đình Đống), cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Bí thư. Do yêu cầu công tác lãnh đạo ngày càng cao, tháng 2/1940, chi bộ lâm thời chuyển thành chi bộ chính thức. Chi bộ cử đồng chí Trần Huy Liệu làm Bí thư, đồng chí Tô Hiệu làm Chi ủy viên. Tháng 5/1940, chi ủy đã triệu tập Đại hội, để thảo luận và quyết định các chủ trương công tác. Đồng chí Tô hiệu được bầu làm Bí thư Chi bộ, Đại hội đề ra 5 công tác lớn:

          Thứ nhất: Chi bộ lãnh đạo hoạt động toàn diện của nhà tù.

          Thứ hai: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên và quần chúng.

          Thứ ba: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, huấn luyện đảng viên về lí luận Mác-Lê nin và phương pháp đấu tranh cách mạng trong nhà tù.

          Thứ tư: Xây dựng và phát triển các tổ chức quàn chúng cách mạng bên trong và bên ngoài nhà tù.

          Thứ năm: Tìm mọi cách bắt liên lạc với Xứ ủy và Trung ương Đảng để xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên đối với chi bộ nhà tù.

          Chi bộ hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và bí mật, đảm bảo sự lãnh đạo liên tục, toàn diện, tránh bị kẻ thù khủng bố. Tuy bị địch kiểm soát gắt gao, sự dò la của bọn mật vụ chỉ điểm, song sự liên lạc giữa các đảng viên ở trại giam vẫn giữ được bí mật, các chỉ thị, nghị quyết của ban chi ủy đều được quán triệt tới các đảng viên.

          Quá trình hoạt động của Chi bộ Nhà tù Sơn La gắn liền với tên tuổi của nhiều chiến sỹ cộng sản kiên trung, trong đó nổi bật lên vai trò của đồng chí Tô Hiệu. Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912 trong một gia đình có truyền thống cách mạng tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cuối tháng 12/1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng. Lúc này, đồng chí là Xứ ủy viên Thường vụ Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Đầu năm 1940, đồng chí bị kết án 5 năm tù khổ sai đày lên Nhà tù Sơn La. Được coi là thành phần cực kỳ nguy hiểm và lấy cớ bị bệnh lao phổi nên chúng giam riêng đồng chí tại một xà lim rộng gần 4m2 và không cho tiếp xúc với tù nhân khác. Mặc dù bệnh tật tàn phá cơ thể nhưng đồng chí vẫn cần mẫn học hành, viết tài liệu, truyền đạt kinh nghiệm, huấn luyện đảng viên với tinh thần lạc quan cách mạng. Đồng chí đã nói với anh, em trong chi bộ “Mình biết chắc mình sẽ chết sớm hơn mọi người, vì vậy mình phải tranh thủ thời gian đẻ chín đấu phục vụ cho Đảng”.

          Vì lý do sức khỏe, đồng chí Tô Hiệu chỉ giữ chức vụ Bí thư Chi bộ Nhà tù Sơn La từ tháng 5/1940 đến tháng 10/1941. Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 7/3/1944 đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà tù Sơn La trong vòng tay và niềm tiếc thương vô hạn của anh em, đồng đội. Cuộc đời tuy ngắn ngủi, song tấm gương tinh thần cách mạng kiên trung của đồng chí Tô Hiệu là tài sản vô giá, bài học to lớn về truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và lịch sử dân tộc.

          Thực hiện Nghị quyết của chi bộ về việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa cho anh em tù nhân. Ủy ban Nhà tù đã thành lập Ban văn hóa, Ban huấn luyện viên soạn giáo trình chính trị, tổ chức các lớp học ngoại ngữ như Pháp văn, Trung văn, tiếng Thái…Cùng với học tập lý luận, văn hóa, chi bộ chủ trương thành lập Ban quân sự để huấn luyện và chế tạo vũ khí cho tù nhân, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Thành lập Ban kinh tế để chăm lo, cải thiện đời sống vật chất cho anh em tù nhân. Đồng thời, quan tâm, chăm lo đến đời sống tinh thân của tù nhân, thành lập, các nhóm thơ, ca, kịch, tổ bích báo…tháng 5-1941 chi bộ Nhà tù Sơn La xuất bản tờ báo “Suối Reo” nhằm tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, rèn luyện phẩm chất cách mạng của người tù cộng sản. Ban biên tập do đồng chí Xuân Thủy làm chủ bút, số ra đầu tiên lấy bốn câu thơ làm lời tựa:

“Thu sang hoa cỏ già rồi

Suối Reo lên để cho đời trẻ trung

Thu sang non nước lạnh lùng

Suối Reo lên để cho lòng ta reo”

          Báo Suối Reo được biên tập và xuất bản mỗi tháng hai số, mỗi số hai tờ với nhiều thể loại như văn xuôi, nghị luận, chính luận, châm biếm, thơ…trở thành món ăn tinh thần động viên tù nhân ở Nhà tù Sơn La.

          Trong tù, mọi hoạt động đều được coi là bất hợp pháp, chỉ dịp tết tổ chức đón xuân thì chúng chấp nhận. Do vậy tết Nhâm Ngọ 1942, chi bộ nhà tù quyết định tổ chức ăn tết linh đình, nhằm tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi, đặt niềm tin vào sự nghiệp cách mạng. Suốt thời gian tết, anh em tù nhân tổ chức đọc thơ, diễn kịch, hát ả đào, các trò chơi dân gian, viết câu đối tết treo khắp nơi ở các phòng giam, nhà bếp, nhà kho…

          Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Nhà tù Sơn La, các ban hoạt động sôi nổi, đời sống vật chất, tinh thần của anh em tù nhân từng bước được cải thiện, tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, tổ chức huấn luyện kỹ thuật quân sự trong tù…qua đó đã góp phần hiện thực hóa chủ trương của chi bộ “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”.

 

          Một sự kiện oanh liệt xảy ra tại Nhà tù Sơn La đó là cuộc đấu tranh tuyệt thực diễn ra vào ngày 13/5/1941. Nguyên nhân của cuộc đấu tranh này là do thực dân Pháp thực hiện chính sách khủng bố, tăng định mức khoán công việc khổ sai, đánh đập vô cớ kíp đi xe nước và phạt hầm Cát Xô. Chi bộ quyết định tổ chức một cuộc đấu tranh truyệt thực để đòi lại quyền lợi cho tù nhân và đưa tù nhân lên khỏi hầm ngầm. Trưa ngày 13/5/1941, khi anh em tuyên bố nhịn ăn, ngay lập tức tên Công sứ Cút Xô đã ra lệnh dồn 156 người xuống giam tại hầm ngầm. Tiếp đó y ra lệnh “Không cho lọt một hạt cơm, giọt nước vào hầm ngầm. Nếu ai trái lệnh sẽ bị xử bắn tại chỗ”. Dưới căn hầm vốn đã thiếu ánh sáng, ẩm ướt, nay biến thành một cái lò nung người, ngột ngạt, hôi hám khiến cho nhiều người bị ngất xỉu. Qua 6 ngày đấu tranh, do không được ăn, uống gì nên nhiều anh em đã kiệt sức. Đến ngày thứ 7, Ủy ban đấu tranh tuyên bố dừng cuộc đấu tranh để bảo toàn lực lượng. Mặc dù vậy, Cút Xô vẫn cố tình nhốt anh em tù nhân thêm 5 ngày nữa và tiếp tục tìm mọi cách để sát hại. Hết ngày thứ 12, bước sang ngày thứ 13 chúng mới đưa tù nhân lên khỏi hầm ngầm. Cuộc đấu tranh kết thúc, tuy không giành được thắng lợi nhưng nó đã góp phần cổ vũ, động viên tinh thần của các chiến sỹ cộng sản, đồng thời gây một tiếng vang lớn trong dư luận quần chúng nhân dân lúc bấy giờ.

          Đầu năm 1943, Chi bộ Nhà tù Sơn La bí mật thành lập tổ chức cách mạng đầu tiên ở thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, đó là hai tổ Thanh niên Thái cứu quốc tại Tỉnh lỵ và huyện Mường La do Chu Văn Thịnh và Cầm Văn Thinh phụ trách. Các tổ thanh niên cứu quốc ngày càng phát triển, có nhiều hình thức vạn động để giác ngộ quần chúng và phát triển hội viên mới. Sau cuộc vượt ngục của tù chính trị năm 1943, thực dân Pháp khủng bố gắt gao. Chi bộ Nhà tù Sơn La chủ trương tạm ngừng liên lạc với các cơ sở quần chúng bên ngoài nhà tù, đồng thời chuyển địa bàn hoạt động về xã Mường Chanh (huyện Mai Sơn). Chi ủy giao cho đồng chí Chu Văn Thịnh về nắm bắt địa bàn để gây dựng cơ sở, chỉ trong một thời gian ngắn đã thành lập được tổ thanh niên cứu quốc gồm 12 hội viên. Ngoài việc giác ngộ nhân dân, anh em tù chính trị còn làm thơ ca tuyên truyền, giác ngộ, thức tỉnh binh lính, công chức bỏ hàng ngũ của địch về với cách mạng. Từ Mường Chanh, làn sóng cách mạng lan tỏa đến nhiều nơi khác, đặt cơ sở cho các vùng bản Lầm, Xanh Pài (huyện Thuận Châu) sang đến tận Sông Mã, trở thành những trung tâm tập hợp lực lượng quần chúng chuản bị tham gia vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.

          Bước sang năm 1943, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, rầm rộ trong cả nước, đòi hỏi phải có nhiều cán bộ kinh nghiệm, đủ uy tín để lãnh đạo. Mặc dù bị địch khủng bố gắt gao, nhưng chi bộ Nhà tù Sơn La vẫn quyết tâm tổ chức cho một số đồng chí vượt ngục với những tiêu chuẩn: Có sức khỏe tốt, mưu trí dũng cảm, tinh thần kiên định; có năng lực, được tín nhiệm mà Đảng rất cần, nhất là những đồng chí xuất thân từ giai cấp công nhân; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, thận trọng. Chi bộ đã chọn được 1 đồng chí vượt ngục gồm: Nguyến Tuấn Đáng (Trần Đăng Ninh), Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiếu (Lưu Quyên) và Nguyễn Lương Bằng (Sao Đỏ). Để vượt ngục thành công. Chi bộ đã lựa chọn anh Lò Văn Giá, một thanh niên dân tộc Thái có sức khỏe, mưu trí dũng cảm, sớm giác ngộ cách mạng, giỏi tiếng Mông và thông thạo địa hình Tây Bắc.

 

          Rạng sáng ngày 3/8/1943, lợi dụng sự sơ hở của cai ngục, bốn đồng chí bí mật trốn khỏi nhà tù đến điểm đã hẹn trước để kịp lên đường. Nhờ sự dẫn đường của anh Lò Văn Giá, chiều tối cùng ngày tổ vượt ngục đã có mặt tại phố Tạ Chan bên bờ sông Đà. Nhưng khi đến đây, nước sông Đà dâng cao lại chảy xiết, anh em đã thay đổi kế hoạch, không vượt sông Đà nữa mà đổi hướng theo dọc sông Đà đi về quốc lộ 41, tổ tiếp tục chia làm hai nhóm đi cách nhau 50-60m. Vượt qua Yên Châu, Mộc Châu đến ngày thứ 5 của cuộc hành trình, đoàn đến đèo Pu Luông và chia tay anh Giá. Trước khi chia tay, anh em trong nhóm vượt ngục đã tập trung tiền, thuốc men đưa cho anh Giá và khuyên anh không nên vội về nhà ngay mà hãy tạm lánh lên vùng rẻo cao làm hương sư dạy học cho trẻ em người Mông một thời gian, sau đó chờ tình hình yên ổn mới quay lại. Anh Giá bình tĩnh trả lời: “các anh cứ yên tâm, không phải lo cho tôi. Tôi đã có cách xử lý. Chỉ mong các anh đi sao cho trót lọt là tôi mừng”. Trong cuốn “Hai lần vượt ngục” đồng chí Trần Đăng Ninh đã viết “Anh thanh niên Thái đưa chúng tôi đến đây là hết phận sự. Chúng tôi cùng anh từ biệt bùi ngùi cảm động. Thuyền xa, chúng tôi nhìn theo người thanh niên Thái và khắc tên Giá của anh vào lòng”

          Chiều ngày 13/8/1943, tổ vượt ngục đã về đến Hà Nội và Hà Đông nhanh chóng bắt liên lạc với Thành ủy Hà Nội và cơ quan liên lạc Trung ương Đảng. Cuộc vượt ngục thành công đã góp phần củng cố niềm tin của tù nhân vào sự lãnh đạo của chi bộ nhà tù: giúp cho các đồng chỉ ở lại có thêm quyết tâm phấn đấu, rèn luyện, kiên trì chờ thời cơ đến. Anh Lò Văn Giá sau khi quay lại Sơn La bị thực dân Pháp bắt, tra tấn rất dã man, chúng đã lén lút thủ tiêu anh một cách hèn hạ. Ghi nhận công lao to lớn, đóng góp của anh vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, năm 1994 anh Lò Văn Giá được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

          Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về việc tổ chức cho một số cán bộ vượt ngục. Mùa hè năm 1944, đồng chí Hoàng Quốc Việt - ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp giao cho đồng chí Bình Phương tổ chức bắt liên lạc với Chi bộ Nhà tù Sơn La. Từ đây, mọi hoạt động của Chi bộ Nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng tại Sơn La đã có sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng.

          Bước sang năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, trước sự thất bại của phe phát xít. Tại Đông Dương, đêm 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp. Trước tình hình đó ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đồng thời phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng rãi, tiến tới tổng khởi nghĩa giành Pháp ở Đông Dương vẫn lọt vào nhà tù. Trước tình thế cách mạng dâng cao, áp lực đấu tranh của tù nhân ngày càng tăng, ngày 18/3/1945, giám ngục Lơ Bông đã ra lệnh di chuyển toàn bộ tù nhân từ Nhà tù Sơn La về giam tại Nghĩa Lộ. Nắm bắt tình hình, chi bộ đã dự kiến kế hoạch và các phương án để giải thoát tù nhân. Khi đến đỉnh đèo Khâu Phạ, nghe tin tại trại giam Nghĩa Lộ, tù nhân đã phá căng, tự giải thoát, tên giám ngục đã bỏ chạy để cho đoàn tù hoàn toàn tự do. Ban lãnh đạo tuyên bố đến đây tù nhân đã thoát khỏi ngục tù, thành lập các nhóm tìm mọi cách bắt liên lạc với Xứ ủy và tổ chức Đảng ở các địa phương để hoạt động. Cuộc đấu tranh thoát ngục hoàn toàn thắng lợi, gần 200 cán bộ của Đảng đã nhanh chóng trở về lãnh đạo phong trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8/1945.

          Hòa chung khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước, ngày 26/8/1945 nhân dân các dân tộc Sơn La đã vùng lên giành chính quyền trong toàn tỉnh, xóa bỏ chế độ phìa, tạo và chức dịch địa phương, nhân dân được tự do làm chủ bản mường.

          Từ năm 1930-1945, thực dân Pháp đã đày lên Nhà tù Sơn La 14 đoàn tù chính trị với tổng số 1.013 lượt tù nhân, trong đó có rất nhiều đồng chí là ủy viên Trung ương, Xứ ủy, thành ủy và nhiều cán bộ cốt cán của Đảng. Trực diện với tội ác của kẻ thù, hơn bao giờ hết khí tiết của người cộng snar đã tỏa sáng và thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng khắp núi rừng Tây Bắc, góp phần rất lớn vào sự thành công của cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945. Nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng vĩ đại, đào tạo, bồi dưỡng cho Đảng và cách mạng Việt Nam những chiến sỹ cộng sản xuất sắc, tiêu bieur như các đồng chí: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thị Nghị, Trần Quốc Hoàn và nhiều đồng chí trung kiên khác.

          Trải qua thời gian, Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La mãi mãi là một bằng chứng vật chất có ý nghĩa cực kỳ quan trọng về những tội ác, dã man, tàn bạo của chế độ thực dân cũ đối với nhân dân Việt Nam. Đồng thời, di tích cũng khẳng định chủ nghĩa yêu nước chân chính, ý chí bất khất của dân tộc Việt Nam là nguồn sức mạnh tinh thần không bao giờ vơi cạn, tiếp sức cho các thế hệ nối tiếp trên con đường bảo vệ nền độc lập dân tọc và xây dựng CNXH. Cây đào Tô Hiệu không những là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của các chiến sỹ cộng sản tại Nhà tù Sơn La, mà còn là lời nhắn nhủ của hậu thế rằng mùa xuân của nhân loại, chủ nghĩa cộng sản sẽ ra hoa kết trái trên mảnh đất Việt Nam thân yêu.

          Ngày nay, Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La trở thành “địa chỉ đỏ” trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho lớp thế hệ các dân tộc Sơn la và nhân dân cả nước. Hàng năm khu di tích đón tiếp, phục vụ hàng trăm nghìn lượt khách trong nước, quốc tế đến tham quan, học tập và nghiên cứu. Với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, du khách thập phương hành hương về nguồn, đến với Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La không chỉ để tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử mà còn là dịp để thắp nén tâm hương bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với sự hi sinh cao cả của các bậc tiền nhân vì nền độc lập tự do cho tổ quốc, cho những mùa đào luôn nở thắm giữa núi rừng Tây Bắc hôm nay.

          Nhà tù Sơn La được Bộ Văn hóa Thông tin trước đây (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1962, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt năm 2014.

          Di tích nằm trên đồi Khau Cả, thuộc tổ 9, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La./.

                                           Hồng Thủy

(Sưu tầm theo Sơn La - Di tích và danh thắng)

 

 

image advertisement

 
image advertisement
 
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH PHỐ SƠN LA
Chịu trách nhiệm nội dung: Ban Biên tập Cổng thông tin điện tử UBND thành phố
Địa chỉ: Số 47 đường Lê Thái Tông - Tổ 2 phường Chiềng Lề - Thành phố Sơn La - Tỉnh Sơn La
SĐT: 02123 852365 - 0915.331585
Email: thanhpho@sonla.gov.vn - Website: http://thanhpho.sonla.gov.vn
Giấy phép thiết lập số 06/GP-TTĐT ngày 24/9/2020 của Sở Thông tin và Truyền thông
 
 Chung nhan Tin Nhiem Mang